Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

8 câu hỏi thảo luận môn KTCT

Câu 1: Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.

1. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
a)      Khái niệm sản xuất hàng hóa
-          Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế, trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm để trao đổi hoặc bán trên thị trường.
-          Sản xuất tự cung tự cấp: là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm tạo ra nhằm để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.
b)      Khác nhau giữa kinh tế hàng hoá và sản xuất tự cấp tự túc
Khác nhau
Kinh tế
Hàng hoá
Kinh tế tự cung tự cấp
- Mục đích sản xuất
Trao đổi, mua bán
Tiêu dùng bản thân người sản xuất
- Phương thức sản xuất
hiện đại
thủ công lạc hậu
- Quy mô sản xuất
lớn
nhỏ
 2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá so với sản xuất tự cấp tự túc.
-          Sản xuất tự cung tự cấp là sản xuất khép kín nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất. Do vậy nhu cầu chỉ dừng lại ở mức độ hạn hẹp. Trái lại sản xuất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của thị trường, nhu cầu thị trường là động lực kích thích sản xuất
-          Sản xuất tự cung tự cấp cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất hàng hoá thì ngược lại nó thúc đẩy sự phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng.( Xuất hiện nhiều ngành nghề mới như vệ sĩ, dịch vụ nhà ở…)
-          Sản xuất tự cung, tự cấp không chỉ có cạnh tranh, chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên còn sản xuất hàng hoá đặt trong môi trường cạnh tranh là động lực to lớn để thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, sử dụng các nguồn lực sản xuất, tiết kiệm và có hiệu quả.
-          Sản xuất tự cung tự cấp khả năng thỏa mãn nhu cầu về vật chất, tinh thần thấp kém, còn đối với sản xuất hàng hoá với quan hệ hàng hoá tiền tiện, quan hệ trao đổi người sản xuất tiêu dùng làm cho giao lưu kinh tế giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển.
c) Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá.
-          Phân công lao động xã hội:
o  Là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất khác nhau tạo nên sự chuyên môn hoá lao động và theo đó là chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau.
o  Do sự phân công lao động mà mỗi người tạo ra những hàng hoá khác nhau trong khi nhu cầu xã hội cần nhiều thứ nên tất yếu dẫn đến trao đổi, mua bán hàng hoá để thỏa mãn nhu cầu.
-          Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định: Do sự tách biệt, do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động dẫn đến sự tách biệt về kinh tế và lợi ích, làm cho lao động của người sản xuất mang tính chất là lao động tư nhân. Do đó người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi sản phẩm dưới hình thái hàng hoá nhằm đảm bảo sự ngang bằng về lợi ích cho mỗi bên.



Câu 2: Hai thuộc tính của hàng hóa, cách xác định lượng giá trị của hàng hóa.
* Khái niệm hàng hóa: là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Có 2 loại hàng hóa: hàng hóa vô hình và hàng hóa hữu hình.


* Hai thuộc tính của hàng hóa:
+ Giá trị sử dụng: Là công dụng của vật phẩm đó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
     - Bất kỳ một sản phẩm nào do con người tạo ra đều có 1 hoặc 1 số công dụng nhất định.
     - Giá trị sử dụng do những thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định, không lệ thuộc vào chế độ xã hội.


     - Giá trị sử dụng được phát hiện dần dần do có sự phát triển của KHKT.
     - Trong nền SXHH giá trị sử dụng không phải cho bản thân người sản xuất, giá trị sử dụng là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi mua bán.


+ Giá trị của hàng hóa: muốn biết giá trị của hàng hóa ta nghiên cứu giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện quan hệ về số lượng, tỷ lệ về trao đổi giữa các sp có giá trị khác nhau.
Ví dụ:1 Cái rìu = 20 kg gạo
Hàng hoá gạo và rìu khác nhau nhưng có thể trao đổi với nhau được vì giữa chúng có một cơ sở chung- rìu và gạo đều là sản phẩm của lao động. Trong quá trình sản xuất hàng hoá người lao động phải tiêu phí sức lao động của mình. Người thợ rèn mất 5giờ lao động để sản xuất ra rìu và người nông dân mất 5giờ lao động để sản xuất ra gạo. Vì vậy, thực chất của sự trao đổi là trao đổi lao động đã hao phí.


--> Kết luận:


     - Hai sản phẩm trao đổi được cho nhau vì chúng đều là  phẩm của lao động , thực chất của trao đổi chính là trao đổi lao động . Thời gian hao phí lao động nó quyết định tỷ lệ trao đổi sản phẩm
.
     - Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.


     - Mối quan hệ giữa giá trị và giá trị trao đổi là quan hệ giữa nội dung và hình thức. Giá trị là nội dung bên trong còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị.


* Lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
+ Thước đo lượng giá trị hàng hoá
            Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất một loại hàng hoá nào đó trong đièu kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình. Hay nói cách khác đây là mức hao phí trung bình của xã hội.
            Thời gian lao động xã hội cần thiết là đại lượng không cố định luôn thay đổi phụ thuộc vào năng xuất lao động và lao động giản đơn, lao động phức tạp


 + Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng gía trị
      - Năng xuất lao động: là hiệu xuất của lao động được biểu hiện bằng số lượng sản phẩm tạo ra trên một đơn vị thời gian hoặc là thời gian cần thiết để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm.


     - Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động:
            Tư liệu sản xuất: trình độ máy móc thiết bị, chất lượng nguyên vật liệu…
            Người lao động: trình độ khéo léo nhanh nhẹn…


           Trình độ quản lý, môi trường thể chế, chính sách…
Năng suất LĐ tăng:
+Số lượng sản phẩm tạo ra trong 1đơn vị thời gian sẽ tăng.
+ Giá trị của 1 đơn vị sản phẩm giảm
.
+Tổng giá trị sản xuất trong 1đơn vị thời gian không đổi
 - Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với lượng giá trị hàng hoá. Tăng năng xuất lao động để giảm giá trị hàng hoá nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh.

* Cường độ lao động: là mức hao phí lao động trên1 đơn vị thời gian nó phản ảnh mức độ khẩn trương của lao động.
Cường độ LĐ tăng : Số sản phẩm tạo ra trong 1 đơn vị thời gian tăng


 Mức hao phí lao động / đơn vị sản phẩm không đổi
Giá trị của 1đơn vị sản phẩm không thay đổi
  Lao động giản đơn, lao động phức tạp


         Lao động giản đơn: là sự hao phí lao động một cách thông thường mà bất kỳ 1 lao động bình thường nào không cần phải được đào tạo cũng có thể thực hiện được.
         Lao động phức tạp: Là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề


         - Trên thị trường sản phẩm đem ra trao đổi có thể là kết quả của lao động giản đơn hoặc lao động phức tạp. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy, trong quá trình trao đổi, thị trường sẽ tự phát huy đổi các lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình cần thiết.


Cấu thành lượng giá trị hàng hoá
Cơ cấu giá trị: Giá trị của hàng hoá gồm hai bộ phận:
         + Giá trị cũ (C): giá trị của tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm mới.
+ Giá trị mới (V+m): do lao động sống tạo ra
        G = C+ (V+m)
Vậy: lao động cụ thể có vai trò bảo toàn, chuyển dịch giá trị những TLSX vào giá trị sản phẩm hàng hoá, làm hình thành giá trị cũ C. Còn lao động trừu tượng tạo nên giá trị mới (V+m).
Cần chú ý, lao động tạo nên giá trị là lao động trừu tượng, phần giá trị do nó tạo ra là giá trị mới (V +m). 


Câu 3: Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ.
1. Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ
         a. Sự phát triển các hình thái giá trị
         ØHình thái giá trị giản đơn.
         - Hình thái này xuất hiện khi công xã nguyên thuỷ tan rã. Trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ sản phẩm là của chung không có trao đổi sản phẩm. sang chế độ chiếm hữu nô lệ xuất hiện trao đổi, lúc đầu mang tính ngẫu nhiên, trực tiếp.
         Ví dụ: 1m vải = 5 kg thóc
         - Trong phương trình trao đổi.
         + Hàng hoá (vải): giá trị được biểu hiện ở một hàng hoá khác (thóc), hình thái giá trị tương đối.
         + Hàng hoá (thóc): dùng để biểu hiện giá trị cho hàng hoá khác (vải) gọi là vật ngang giá- mầm mống phôi thai của giá trị.
Hình thái giá trị tương đối và hình thái vật ngang giá là 2 mặt có liên quan nhau, không thể tách rời nhau. Vải hình thái giá trị tương đối đóng vai trò chủ động, thóc vật ngang giá đóng vai trò bị động. Vì người trao đổi vải chủ động đi tìm trong số các sản phẩm lấy thóc là vật ngang giá để trao đổi.
         Hình thái này chỉ tồn tại trong giai đoạn đầu khi việc trao đổi mang tính chất trực tiếp ngẫu nhiên chưa cố định.

         b .Hình thái giá trị đầy dủ.
         Khi LLSX và phân công lao động phát triển, trong xã hội thực hiện phân công lao động lần thứ hai tách chăn nuôi ra khổi trồng trọt hàng hoá đem trao đổi trên thị trường ngày càng thường xuyên hơn thì giá trị có hình thái đầy đủ hay mở rộng.
Ví dụ: 
         Hình thái vật ngang giá được mở rộng ra nhiều hàng hoá khác
Hình thái giá trị tương đối được thể hiện ở nhiều hàng hoá khác
         So với hình thái giá trị ngẫu nhiên thì hình thái giá trị đầy đủ có ưu điểm là tỷ lệ trao đổi cố định hơn trước. Nhưng có những nhược điểm
         + Khi xuất hiện nhiều hàng hoá mới thì biểu hiện tương đối của hàng hoá là vô tận .(1m vải đổi được 1Kg thóc, 2 con gà, 1 Kg thịt, 1 con cừu…)
         + Từ hình thái giá trị này nhiều biểu hiện giá trị khác nhau được hình thành
         Ví dụ: 10Kg cà phê=    1 bộ quần áo
                                                  20 Kg chè…
Có bao nhiêu hàng hoá thì có bấy nhiêu chuỗi trao đổi hàng hoá
         + Nhu cầu của người chủ hàng hoá là khác nhau. Nên khó khăn khi tìm những chủ hàng hoá có nhu cầu phù hợp để trao đổi.
         Ví dụ: người có rìu thì cần thóc, người có thóc lại cần cà phê, vải…               
         c. Hình thái chung của giá trị.
         Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động phát triển ở mức cao hơn thì trao đổi trực tiếp không phù hợp, để khắc phục khó khăn trên cần xã hội 1 loại hàng hoá được mọi người thừa nhận là đại biểu cho giá trị.
         Trong quá trình trao đổi hàng hoá xuất hiện 1 nhu cầu là những người chủ hàng hoá phải tìm được 1 hàng hoá nào đó mà được nhiều người thích đối với nó nhất để đổi hàng hoá của mình
         Hình thái chung của giá trị xuất hiện.
         Ví dụ:    5kg thóc
                      1 kg thịt     = 1 m vải  (là vật ngang giá làm trung gian trong trao đổi)
                      1 con cừu
         Người ta chọn 1m vải vật trung gian cố định làm căn cứ trao đổi được nhiều người yêu thích nhất.
         Từ công thức trao đổi có thể suy ra 5 Kg thịt =  1Kg thịt = 1 con cừu

         d. Hình thái tiền tệ.
         - Khi LLSX và phân công lao động tiếp tục phát triển, trao đổi bắt đầu vượt khỏi phạm vi các vùng thì việc mỗi vùng có 1 vật ngang giá chung khác thì gây khó khăn cho trao đổi. Từ đó cần thiết phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định ở 1 hàng hoá độc tôn thì hình thái tiền tệ của giá trị xuất hiện. Lúc đầu có nhiều hàng hoá đóng vai trò tiền tệ nhưng về sau chúng được cố định ở bạc và vàng cuối cùng là vàng.
         - Sở dĩ vàng được chọn làm vì nó có các thuộc tính tự nhiên thích hợp với vai trò này. Đó là dẽ chia nhỏ, dẽ dát mảng, ít hao mòn, một lượng nhỏ chứa đựng 1 lượng giá trị lớn.
         b.Bản chất của tiền tệ.
         Là 1 hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung thống nhất cho tất cả các hàng hoá khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.

         2.Chức năng của tiền tệ          
         a. Thước đo giá trị.
         - Tiền dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của hàng hoá. (đây là chức năng cơ bản của tiền)
          - Muốn làm chức năng thước đo giá trị, bản thân tiền phải có giá trị, cũng như muốn dùng quả cân để đo trọng lượng của một vật thì bản thân quả cân phải có trọng lượng. Giá trị của tiền không phải do thuộc tính tự nhiên của tiền mà do thời gian cần thiết để sản xuất ra vàng. (chính là hao phí xã hội cần thiết để sản xuất ra vàng)
- Giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền thì gọi là giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các nhân tố sau đây quyết định.
         + Giá trị hàng hoá: tỷ lệ thuận với giá cả hàng hoá
         + Giá trị của tiền : tỷ lệ nghịch với giá cả. .( giá trị tiền á       Giá cả â)
         + Quan hệ cung cầu : cung > cầu è giá cả < giá trị
                                                cung < cầu è giá cả > giá trị
                                                Cung = cầu è  giá cả  =  giá trị
         - Đơn vị đo lường tiền tệ : là 1 khối lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước thì đơn vị tiền tệ có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó gọi là tiêu chuẩn giá cả.
Tiền là thước đo giá trị chung để đo lường giá trị các hàng hoá khác. Là tiêu chuẩn giá cả tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền.
         b. Phương tiện lưu thông.
       - Tiền làm phương tiện lưu thông tức là làm môi giới trong trao đổi hàng hoá. Công thức của lưu thông hàng hoá là H - T – H. Ở đây có sự tách rời giữa quá trình mua và bán.
         - Thực hiện chức năng lưu thông, lúc đầu người ta dùng vàng thoi, bạc nén nhưng khó khăn khi chia nhỏ, nên dần dần được thay bằng tiền đúc. Tuy nhiên, viêc lưu thông tiền đúc cũng làm cho tiền đúc bị hao mòn dần và không còn đầy đủ giá trị ban đầu nhưng vẫn được chấp nhận như tiền đủ giá trị. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy, bản thân tiền giấy không có giá trị, nhưng do Nhà nước phát hành và buột xã hội công nhận.
         c. Phương tiện cất giữ.
         - Của cải tồn tại dưới dạng tiền tệ là thuận tiện nhất cho con người. Có thể tích luỹ hay cất trữ của cải dưới dạng tiền tệ, vì tiền tệ là vật ngang giá chung cho các hàng hoá khác.
         - Chức năng này đòi hỏi tiền tệ phải đủ giá trị (tiền vàng, bạc), tiền tệ rút khỏi lưu thông và chỉ tung vào lưu thông khi cần thiết.
         d. Phương tiện thanh toán.
         - Tiền làm phương tiện thanh toán gắn liền với sự phát triển của chế độ tín dụng. Dùng để chi trả sau các giao dịch, mua bán, trả nợ, nộp thuế…
         - Tiền làm chức năng phương tiện thanh toán một mặc làm xuất hiện kiểu khấu trừ không dùng tiền mặt, mặt khác nó phát triển hệ thống chủ nợ và con nợ tạo ra nguy cơ khủng hoảng dây chuyền.    
          e. Tiền tệ thế giới.
         Thực hiện chức năng này, tiền tệ được sử dụng trong quan hệ kinh tế quốc tế như: quan hệ thương mại quốc tế, quan hệ tín dụng quốc tế…Thực hiện chức năng tiền tệ thế giới phải là tiền vàng hoặc là ngoại tệ mạnh, có giá trị ổn định và sức chuyển đổi cao.

Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ quy định số lượng tiền cần thiết cho lưu thông ở mỗi thời kỳ nhất định
- Khối lượng tiền làm chức năng phương tiện lưu thông được tính bằng công thức:      
M: Khối lượng tiền cần thiết.
P: mức giá
V: Số vòng luôn chuyển trung bình của 1 đơn vị tiền tệ

Khi tiền thực hiệnc hức năng phương tiện thanh toán thì
M: Số lượng tiền cần cho lưu thông
1: Tổng giá trị hàng hoá dịch vụ lưu thông
2: Tổng giá cả hàng hoá bán chịu
3: Tổng giá cả hàng hoá khấu trừ.
4: Tổng giá cả hàng hoá đến kỳ thanh toán
5: số vòng luôn chuyển trung bình của 1 đơn vị tiền tệ
Lạm phát: khi lượng tiền giấy đưa vào lưu thông vượt quá số lượng vàng hoặc bạc cần thiết cho lưu thông dẫn đến hiện tượng giá cả tăng nhanh chóng đồng tiền bị mất giá.   


Câu 4:Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản và hai thuộc tính hàng hóa sức lao động.

Công thức chung của tư bản: T – H – T’
 Vì sự vận động  của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó, dù đó là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay. Điều này rất dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn, bởi vì hình thức vận động của tư bản thương nghiệp là mua vào để bán ra đắt hơn, rất thích hợp với công thức trên. Tư bản công nghiệp vận động phức tạp hơn, nhưng dù sao cũng không thể tránh khỏi những giai đoạn T – H và H – T’. Còn sự vận động của tư bản cho vay để lấy lãi chẳng qua chỉ là công thức trên được rút ngắn lại T – T’. C.Mác chỉ rõ: “ Vậy T – H – T’ thực sự là công thức chung của tư bản, đúng như nó trực tiếp thể hiện ra trong lĩnh vực lưu thông”.
+Công thức chung của tư bản:
Phân biệt: tiền thông thường (tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn) và tiền là tư bản (trong lưu thông của tư bản): tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn, vận động theo cộng thức (1) H-T-H’; tiền là tư bản vận động theo công thức (2) T-H-T’.
Điểm giống nhau: Cả 2 sự vận động đều do 2 giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, đều có 2 yếu tố tiền & hàng, đều có 2 người có wan hệ kinh tế với nhau là người mua & người bán. Nhưng đó chỉ điểm jống nhau về hình thức.
Điểm khác nhau về chất giữa 2 hình thức:
H-T-H’
T-H-T’
Điểm xuất phát & điểm kết thúc của quá trình vận động
Đều là hàng hóa, tiền đóng vai trò trung gian
Đều là tiền, hàng hóa đóng vai trò trung gian
-Trình tự vận động
Bắt đầu là việc bán, kết thúc = việc mua
Bắt đầu = việc mua, kết thúc = việc bán
-Mục đích vận động
Là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu
Là giá trị hơn nữa là giá trị tăng them
Giới hạn vận động
Có giới hạn
Ko có giới hạn
-tóm lại: công thức (2) phản ánh mục đích vận động là tiền với tư cách là tư bản, nên lượng giá trị sau quay về phải lớn hơn giá trị ban đầu, vậy công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’, trong đó T’=T+Dt, (Dt là giá trị thặng dư, kí hiệu là m). Như vậy công thức T-H-T’ là công thức chung của tư bản, vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này.

Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản 
Lý luận giá trị đã chứng minh rằng: Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn vào công thức T-H-T’ người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo ra giá trị khi vận động trong lưu thông.
Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được. Tiền không thể sinh ra tiền là điều hiển nhiên.
Còn lưu thông thuần túy, dù diễn ra ở bất cứ hình thức nào, kể cả việc mua rẻ bán đắt, cũng không làm tăng thêm giá trị, không tạo ra
giá trị thặng dư; ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội mà thôi bởi nếu mua rẻ thứ này thì sẽ lại phải mua đắt
thứ kia; bán đắt thứ này thì lại phải bán rẻ thứ khác, vì tổng khối lượng hàng và tiền trong toàn xã hội ở một thời gian nhất định là
một số lượng không đổi. Tuy vậy, không có lưu thông cũng không tạo ra được giá trị thặng dư. Do đó, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông đẻ ra nhưng lại được tạo ra thông qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình. Đó là hàng hóa sức lao động.

Hàng hóa sức lao động. 
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người, là khả năng lao động của con người. Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi
quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
Người có sức lao động được tự do thân thể, được quyền làm chủ sức lao động của mình để có thể đi làm thuê (bán sức lao động).
Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác để sinh sống, buộc phải đi làm thuê, tức là bán sức lao động của mình. Sức lao động khi trở thành hàng hóa, nó vừa có hai thuộc tính như hàng hóa thông thường vừa có đặc điểm riêng.
Giá trị hàng hóa sức lao động cũng bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó. Nhưng việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động phải được thực hiện bằng cách tiêu dùng cho cá nhân. Vì vậy, lượng giá trị hàng hóa sức lao động bằng lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần để nuôi sống người công nhân, gia đình anh ta và chi phí đào tạo công nhân theo yêu cầu của sản xuất. Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là công dụng của nó để thỏa mãn nhu cầu người mua là sử dụng vào quá trình lao động. Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động khi được sử dụng, nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. Đây cũng chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho người có tiền và người có tiền phải tìm được một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động.


Câu 5:Tích lũy, tích tụ và tập trung tư bản. Ý nghĩa từ việc nghiên cứu.

* Tích tụ TB: là sự tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa GTTD. Vậy tích tụ TB là kết quả trực tiếp của tích lũy TB. Tích tụ TB do yêu cầu của việc mở rộng SX, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật. Mặt khác, khi khối lượng GTTD tăng thêm lại tạo khả năng hiện thực cho tích tụ TB mạnh hơn.
* Tập trung TB: là sự tăng thêm quy mô của TB cá biệt bằng cách hợp nhất những TB cá biệt có sẵn trong XH thành một TB cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung TB.
- Do cạnh tranh mà dẫn tới sự liên kết tự nguyện hay sáp nhập các TB cá biệt.
- Tín dụng TBCN là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong XH vào tay các nhà TB.
* So sánh tích tụ TB và tập trung TB:
- Giống nhau: đều làm tăng quy mô của TB cá biệt.
- Khác nhau:
Tích tụ TB
Tập trung TB
- Nguồn gốc: là GTTD được TB hóa.
- Quy mô: TB cá biệt tăng và TB XH tăng
- Quan hệ: giữa nhà TB và LĐ.
- Giới hạn: khối lượng GTTD có được
- Nguồn gốc: là những TB cá biệt đã hình thành sẵn trong XH,
 - Quy mô: TB cá biệt tăng nhưng quy mô TB XH vẫn như cũ.
- Quan hệ: giữa nhà TB với nhà TB; giữa TB và LĐ.
- TB tập trung từng ngành, khác ngành, toàn XH (số TB cá biệt trong một ngành trong XH.

* Vai trò của tập trung TB trong sự phát triển của CNTB:
            + Nhờ có tập trung TB mà có thể tổ chức được một cách rộng lớn LĐ hợp tác, biến quá trình SX rời rạc, thủ công thành quá trình SX phối hợp theo quy mô lớn và được xếp đặt một cách khoa học, xây dựng được những công trình công nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
            + Tập trung TB làm cho cấu tạo hữu cơ TB tăng lên, nhờ đó NSLĐ tăng lên nhanh chóng. Vì vậy, tập trung TB trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của tích lũy TB
            + Quá trình tích tụ và tập trung TB ngày càng tăng, do đó, nền SX TBCN cũng ngày càng trở thành nền SX xã hội hóa cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của CNTB càng sâu sắc thêm.
* Ý nghĩa nghiên cứu:
            + Tích tụ và tập trung TB là các con đường làm cho quy mô vốn tăng lên.
+ Việc tập trung TB có ý nghĩa to lớn đối với CNTB trong việc tăng nhanh quy mô TB để cải tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu KHCN mới, tăng NSLĐ để giành thắng lợi trong cạnh tranh
+ Đối với nước ta, cần hình thành những tập đoàn kinh tế có quy mô vốn lớn. Từ đó, nước ta mới có điều kiện tham gia cạnh tranh trong điều kiện hội nhập nền kinh tế nước ta với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới
+ Quy mô vốn lớn còn là điều kiện, tiền đề nhằm đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta hiện nay.


Câu 6:Lợi nhuận và lợi nhuận bình quân trong CNTB.
Lợi nhuận
Chi phí thực tế sản xuất tạo ra giá trị hàng hoá: Để tiến hành sản xuất, nhà TB phải chi phí một lượng lao động nhất định, đó là:
- Lao động quá khứ (ký hiệu là c)
- Lao động sống tạo ra giá trị mới (ký hiệu là v + m)
G = c + v + m
Chi phí sản xuất TBCN: Để tiến hành sản xuất nhà TB phải ứng TB (ứng một lượng tiền ra) để mua tư liệu sản xuất (c); ứng TB để mua hàng hoá sức lao động (v) Chi phí sản xuất TBCN - TB ứng trước (k)
K = c + v
So sánh: Giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất TBCN khác nhau cả về lượng và về chất:
- Về lượng, G bao giờ cũng lớn hơn K
- Về chất, G là chi phí lao động liên quan đến việc hình thành giá trị hàng hoá, còn K không liên quan đến việc hình thành giá trị hàng hoá
Lợi nhuận: Giữa giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất TBCN sau khi bán hàng hoá nhà TB đã đủ bù đắp TB ứng ra, thu được một phần lời ngang bằng với m gọi là lợi nhuận (ký hiệu là P).
G - K = m = P  mà K = c + v => G = c + v + m  => G = K + m => G = K + P
Kết luận: Lợi nhuận che giấu bản chất bóc lột của CNTB, xoá nhoà ranh giới giữa c và v, xoá nhoà nguồn gốc tạo ra m. Khi nói đến m hàm ý so sánh với v, khi nói đến P hàm ý so sánh với TB ứng trước bỏ vào sản xuất kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận:
Là tỷ lệ phần trăm giữa m với toàn bộ TB ứng trước bỏ vào sản xuất kinh doanh (P').
P' =                       m' =
So sánh giữa tỷ suất m (m') và P' khác nhau cả về lượng và về chất:
- Về lượng, m' bao giờ cũng lớn hơn P'
- Về chất, m' nói lên mức độ bóc lột của nhà TB đối với lao động làm thuê, còn P' chỉ cho nhà TB biết đầu tư nơi nào có lợi nhất.
Phương án 1: 80c + 20v + 20m (m' = 100%; p' = 20%)
Phương án 2: 70c + 30v + 30m (m' = 100%; p' = 30%)


Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất
* Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá cả thị trường
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, SX cùng một loại hàng hóa nhằm mục đích giành ưu thế trong SX và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành thể hiện: cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa SX nâng cao chất lượng hàng hóa cải tiến mẫu mã… làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa do xí nghiệp SX ra thấp hơn giá trị XH để thu được lợi nhuận siêu ngạch
Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến hình thành giá trị XH của hàng hóa (hay giá trị thị trường của hàng hóa) làm cho điều kiện SX trung bình của một ngành thay đổi, giá trị XH của hàng hóa giảm xuống, chất lượng hàng hóa được nâng cao, chủng loại hàng hóa phong phú
* Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp TB kinh doanh trong các ngành SX khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Do điều kiện SX không giống nhau giữa các ngành SX trong XH, vì thế lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của họ thu được cũng không giống nhau nên các nhà TB phải chọn ngành nào có tỷ suất lợi nhuận cao nhất để đầu tư.
Sự hình thành lợi nhuận bình quân đã làm cho quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB thể hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.
Sự hình thành giá cả SX
Khi hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả SX. Giá cả SX là giá cả bằng chi phí SX cộng lại với lợi nhuận bình quân.
Giá cả SX = K + p
Giá trị là cơ sở của giá cả SX. Giá cả SX là cơ sở của giá cả thị trường, giá cả SX điều tiết giá cả thị trường, giá cả thị trường xoay quanh giá cả SX. Khi giá trị của hàng hóa chuyển hóa thành giá cả SX thì quy luật giá trị có hình thức biểu hiện là quy luật giá cả SX
Ý nghĩa nghiên cứu:
+ Việc hình thành lợi nhuận bình quân chỉ rõ sự tranh giành nhau về mặt quyền lợi giữa các nhà TB. Vạch rõ toàn bộ giai cấp TS tham gia bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân, giai cấp công nhân phải đấu tranh với tư cách là một giai cấp, đấu tranh kinh tế kết hợp chính trị.
+ Lợi nhuận bình quân và giá cả SX che giấu nguồn gốc GTTD, làm cho người ta nhầm tưởng, cứ đầu tư một lượng TB như nhau thì thu được lợi nhuận như nhau, dẫn đến quan điểm TB sinh lợi nhuận
+ Sự hình thành lợi nhuận bình quân cho thấy cạnh tranh gay gắt có tác dụng ngăn cản độc quyền. Mặt khác, cạnh tranh thôi thúc các nhà TB cải tiến kỹ thuật SX, thúc đẩy LLSX phát triển
+ Cạnh tranh dẫn đến đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, giá cả hàng hóa rẻ hơn, ngành nghề được mở rộng, sản phẩm mới ngày càng tăng.


Câu 7:Các đặc trưng kinh tế của CNTB độc quyền.
Có 5 đặc trưng.
a. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền:
- Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ bản của CN đế quốc:
+ Khi bắt đầu chuyển sang CNTB- ĐQ thì hình thức thống trị là công ty cổ phần. Những liên minh độc quyền này đầu tiên hình thành theo sự liên kết ngang ( cùng ngành) dưới hình thức: Cácten, Xanhđica, Trớt.
+ Sau đó là sự liên kết dọc. Sự liên kết này không chỉ các xí nghiệp lớn mà cả các Xanhđica, Trớt thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về kinh tế - kỹ thuật dẫn đến hình thành các công ty độc quyền lớn như: Côngxoocxiom. Nhưng từ giữa thế kỷ 20 đã phát triển lên một hình thức mới: liên kết đa ngành hình thành các công ty lớn như: Cônglômêrát, Consơn thâu tóm nhiều công ty xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp khác nhau.
Khái niệm: Tổ chức độc quyền là liên minh những nhà TB lớn để tập trung vào trong tay một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó.
- Vị trí, vai trò: Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền.
+ Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất:
* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa bán ra.
* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mua vào, qua đó thu được lợi nhuận độc quyền.
Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc quyền. Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư, vì xét trên phạm vi toàn xã hội thì: Tổng giá cả vẫn bằng tổng giá trị; tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.
Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước TB, thuộc địa mất đi.
Như vậy ta thấy: Độc quyền ra đời từ cạnh tranh và giữ vai trò thống trị, nhưng nó không thủ tiêu được cạnh tranh; độc quyền và cạnh tranh tồn tại song song và thống nhất với nhau một cách biện chứng. Tuy nhiên trong thời đại Đế quốc chủ nghĩa thì tính chất cạnh tranh khác hẳn thời kỳ tự do cạnh tranh về mức độ và hình thức.

b. TB tài chính và bọn đầu sỏ tài chính:
- Song song với qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất, thì trong ngành ngânhàng cũng diễn ra một quá trình tương tự. Hình thành các tổ chức độc quyền ngân hàng.
- Sự ra đời của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay đổi vai trò của ngân hàng:
+ Từ chỗ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế xã hội:
* Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và nhận gửi số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp tring một thời gian dài, nên lợi ích của chúng quyện chặt vào nhau. Hai bên đều quan tâm đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau, hình thành nên TB tài chính.
- Khái niệm: TB tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vàp nhau giữa TB độc quyên trong ngân hàng và TB độc quyền trong công nghiệp.
- Sự phát triển của TB tài chính đã dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế, chính trị xã hội của xã hội TB. Đó chính là bọn đầu sỏ tài chính.
* Bọn đầu sỏ tài chính thực hiện sự thống trị của mình bằng "chế độ tham dự" với số phiếu khống chế mà chi phối được công ty gốc (công ty mẹ) -> chi phối công ty con ->chi phối công ty cháu… Như vậy chỉ bằng một số TB nhất định một đầu sỏ tài chính có thể chi phối được những lĩnh vực sản xuất 

c. Xuất khẩu tư bản:
- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản đó.
- Xuất khẩu tư bản là tất yếu:
+ Vì trong các nước tư bản có hiện tượng "thừa tư bản".
+ Giá trị nguyên liệu và nhân công ở các nước chậm phát triển rẻ, nhưng lại thiếu vốn và kỹ thuật
+ Thị trường tiêu thụ hàng hóa rộng lớn.
- Hình thức xuất khẩu TB:
+ Xuất khẩu tư bản trực tiếp: Xây dựng các xí nghiệp, trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận,....
+ Xuất khẩu tư bản gián tiếp: Cho vay tư bản để thu lợi tức….
- Xuất khẩu TB vừa có tác dụng tích cực vừa có tác dụng tiêu cực, đặc biệt là đối với các nước nhận đầu tư, có thể dẫn tới tình trạng lệ thuộc về kinh tế, dẫn tới lệ thuộc về chính trị. 

d. Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế
Việc xuất khẩu TB tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư TB, phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền quốc tế với nhau... Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế: Cacten, Xanhđica, Trớt quốc tế. Nhưng giữa cac tổ chức này luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh lẫn nhau… tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế.

e. Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc 
Lợi ích của việc xuất khẩu TB đã thúc đẩy các cường quốc TB đi xâm chiếm thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ dàng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Do tcác động đó, đặc biệt là do tác động của quy luật phát triển không đều của CNTB đó là những
nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, cũng như các cuộc xung đột nóng ở nhiều khu vực trên thế giới hiện nay...
Như vậy: chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị ở nước ngoài của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.
Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản độc quyền.


Câu 8:Nguyên nhân ra đời của CNTB độc quyền Nhà nước và vai trò của nó trong xã hội tư bản ngày nay.
1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Sự phát triển cao của trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn xã hội quản lý nền sản xuất.
- Sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự tác động của khoa học - kỹ thuật làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế thay đổi, xuất hiện một số ngành mà tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn đầu tư kinh doanh, vì dầu tư vốn lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng. Bởi vậy, cần phải có sự giúp đỡ đầu tư và can thiệp của nhà nước.
- Sự thống trị của độc quyền làm tăng thêm tính đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động, đòi hỏi nhà nước tư sản phải có những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn đó.
- Sự mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại và sự hoạt động bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, đòi hỏi nhà nước tư sản phải đứng ra bảo hộ tạo môi trường quốc tế hỗ trợ các tổ chức độc quyền tư nhân, mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chuyển dịch các mâu thuẫn đối kháng ra ngoại vi, nhằm giảm bớt mức độ gay gắt mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
2. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự thống nhất của ba quá trình:
- Tăng sức mạnh của tổ chức độc quyền.
- Tăng vai trò kinh tế của nhà nước tư sản.
- Kết hợp sức mạnh độc quyền tư nhân với nhà nước tư sản trong một cơ chế thống nhất, nhằm bảo trì và thúc đẩy CNTB phát triển.
Về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không phải là một chính sách của nhà nước tư sản trong giai đoạn độc quyền thống trị. Nó là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nghĩa trước sự phát triển mạnh của lực lượng sản xuất và tính xã hội hóa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.

Vai trò của nó trong xã hội tư bản ngày nay 
Xét về bản chất CNTB độc quyền nhà nước vẫn là chủ nghĩa tư bản, chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư, mặc dù đã có nhiều thay đổi so với chủ nghĩa tư bản thời kỳ canh tranh tự do.
- CNTB độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng nóc vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- CNTB độc quyền nhà nước chỉ là một nấc thang mới so với chủ nghĩa tư bản độc quyền thời kỳ đầu.
Đặc điểm nổi bật của CNTB độc quyền nhà nước là sự can thiệp, sự điều tiết của nhà nước về kinh tế.
Như vậy CNTB độc quyền nhà nước không phải là một chế độ kinh tế mới so với CNTB, lại càng không phải chế độ tư bản mới so với CNTB độc quyền. CNTB độc quyền nhà nước chỉ là CNTB độc quyền có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước về kinh tế.

2. Những biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước.
a. Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản:
- Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện
+ Thông qua các đảng phải tư sản.
+ Thông qua các hội chủ xí nghiệp:
* Các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham giai vào bộ máy nhà nước
* Các quan chức chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền.

b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước:
- CNTB độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nổi bật nhất là sức mạnh của sđộc quyền và nhà nước kết hợp với nhau trong lĩnh vựs kinh tế; Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu:
* Sở hữu nhà nước tăng lên.
* Quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền được tăng cường trong quá trình chu chuyển của tổng tư bản xã hội.
+ Sở hữu nhà nước được hình thành dưới những hình thức:
* Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách.
* Quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại
* Nhà nước mua cổ phiếu cảu các doanh nghiệp tư nhân.
* Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân .

c. Sự điều tiết kinh tế cua nhà nước tư sản:
- Nhà nước tư sản dung hợp cả 3 cơ chế: Thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về bản chất, hệ thống điều tiết đó phục vụ cho CNTB độc quyền.