ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN (lần
2)
PHẦN II
CÂU 1: Phân tích quan điểm của Triết học Mác- Lênin về bản chất của nhận thức?
Nguồn gốc và Bản chất của nhận thức Nhận thức là 1 quá trình phản ánh tích
cực,tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực
tiễn nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan. Bằng sự kế thừa
những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái quát các thành tựu khoa học,
C. Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về nhận
thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận
thức vì đã xây dựng được nhữngquan điểm khoa học đúng đắn về bản chất của nhận
thức. Học thuyết này ra đời dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
·
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý
thức của con người.
·
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức
được thế giới của con người, coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Không
có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức
được mà thôi.
·
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là
một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy
diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện
tượng đến bản chất.
·
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ
yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Theo đó nhận thức được hiểu là một quá trình,đó
là quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý
luận;từ trình độ nhận thức thông đến trình độ nhận thức khoa học...
*
KẾT LUẬN : Dựa trên nguyên tắc đó, chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định:
-
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
-
Nhận
thức là một quá trình từ thấp đến cao , từ chưa biết đến biết, trên cơ sở của
những cái gì đã có để rồi tưởng tượng , sáng tạo ra những cái không có
trong hiện thực. Nhận thức được bắt nguồn
từ thực tiễn, trước hết là thực tiễn hoạt động sản xuất vật chất,hoạt động đấu
tranh chính trị làm biến đổi xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Chính vì vậy
Lênin viết : “Thực tiễn là mục đích, là cơ sở , là động lực của sự nhận thức và
là tiêu chuẩn của chân lý”.
-
Bản
chất nhận thức là phản ánh do đó không có cái gì con người không nhận thức được,
chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thôi.
CÂU 2 : Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? Ý
thức nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này?
Thực tiễn là hoạt
động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội, nhằm cải tạo tự
nhiện và xã hội. Phạm trù “thực tiễn” là một trong những phạm trù nền tảng, cơ
bản của triết học Mác- Lê nin nói chung và lý luận nhận thức mácxít nói riêng. Thực
tiễn gồm các hoạt độngcơ bản sau:
·
Hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất.
·
Hoạt động đấu tranh chính trị xã hội: đấu tranh giai cấp, giải phóng dân tộc
·
Hoạt động quan sát thực nghiệm khoa học :.
Trong ba lĩnh vực hoạt động trên thì hoạt
động lao động sản xuất ra của cải vật chất là dạng hoạt động cơ bản nhất đối với
nhận thức .Bởi vì trong LĐSX mà không nhận thức được các qui luật vận động của
hiện thực khách quan thì không thể sản xuất ra của cải vật chất, con người sẽ
chết vì đói, xã hội cũng không thể tồn tại
và phát triển được, và suy cho cùng thì các dạng hoạt động thực tiễn khác như
hoạt động chính trị, hoạt động khoa học nghệ thuật, tôn giáo cũng đều từ lao động
SX mà ra và cũng chỉ nhằm phục vụ cho hoạt động SX, do đó các lĩnh vực này đều
có mối liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, vì vậy nhận thức bao giờ cũng mang
tính lịch sử - xã hội.
Vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức:
+ Thực tiễn là nguồn gốc cơ sở của nhận thức:
*Thông
qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan làm cho các
sự vật hiện tượng bộc lộ đặc điểm thuộc tính, kết cấu, quy luật…được các giác
quan con người phản ánh lại, trải qua nhiểu lần như vậy sẽ giúp con người có được
nhận thức về thế giới khách quan. Ví dụ: nông dân trồng lúa qua quá trình lao động
sản xuất phát hiện đúc kết kinh nghiệm “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống”.
Nhận thức thông qua 2 con đường gián tiếp
và trực tiếp.
*Hoạt động
thực tiễn còn hoàn thiện giác gian, bộ óc của con người, làm cho năng lực phản
ánh của nó ngày càng chính xác hơn.
* Hoạt động
thực tiễn còn chế tạo các công cụ, phương tiện để nối dài các giác quan của con
người. “Nối dài”, ví dụ kính viễn vọng, kính hiển vi giúp nhìn xa, nhìn sâu hơn
mắt thường.
+ Thực
tiễn là động lực của nhận thức
Động lực là lực bên trong thôi thúc nhận thức,
hành động phát triển.
*Hoạt động thực
tiễn sẽ giúp con người xác định các mâu thuẫn giữa đúng vài sai, giữa nhận thức
cũ và thực tiễn mới, buộc con người phải tìm cách giải quyết mâu thuẫn đó. Khi
mâu thuẫn được giải quyết, nhận thức sẽ phát triển hơn. Khi hoạt động thực tiễn
chưa hiệu quả, nhạn thức có thể chưa đúng, hoặc thiếu.
* Thực tiễn
luôn vận động biến đổi không ngừng, luôn đặt ra cho con người những nhu cầu nhiệm
vụ mới. Do vậy, mỗi bước phát triển đi lên của thực tiễn trở thành động lực
thôi thúc nhận thức của con người phát triển theo.
+ Thực
tiễn là mục đích của nhận thức, mục đích cuối cùng của nhận thức là nhằm
cải tạo thế giới khách quan, do vậy những tri thức oon người đạt được phải được
vận dụng vào thực tiễn, hướng dẫn thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu
quả hơn, qua đó cải tạo thế giới
+ Thực
tiễn là cơ sở kiểm tra chân lý
Thông qua hiệu
quả thực tiễn sẽ kiểm chứng tri thức của con người là đúng hay sai và đúng sai ở
mức độ nào. Tuy nhiên, thực tiễn luôn vận động biến đổi, vì vậy những tri thức
được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng cũng chỉ có tính tương đối.Vì thế thực tiễn
là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
* Ý nghĩa phương pháp
luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này:
- Nhận thức, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách,
phải trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ những nhu cầu về thực tiễn. Nếu chỉ có
lý luận, dễ rơi vào bệnh lý luận suông, lối tư duy chỉ dựa vào lý luận là tư
duy chủ quan, không khoa học. Thực tiễn là công cụ, phương tiện nhận thức, nếu
biết vận dụng thì nhận thức sẽ đúng đắn hơn. Nhận thức cũng hiệu quả hơn nếu xuất
phát từ nhu cầu thực tiễn.
- Theo sát sự
biến đổi và phát triển của thực tiễn, tăng cường tổng kết thực tiễn để sửa đổi,
bổ sung, phát triển nhận thức cho phù hợp với thực tiễn. Do thực tiễn biến đổi
vận động không ngừng, nhận thức phải thay đổi theo. Tăng cường tổng kết thực tiễn sẽ có thêm tri thức mới, kinh nghiệm
mới để điều chỉnh nhận thức, bổ sung phát triển nhận thức
- Phải tôn
trọng thực tiễn, căn cứ vào thực tiễn mà kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức
lý luận, cũng như những chủ trương chính sách, biện pháp.
CÂU 3:Phương thức sản xuất là gì?Phân tích vai trò của phương thức sản xuất đối
với sự tồn tại và phát triển của xã hội? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc
nghiên cứu vấn đề này?
Phương thức sản xuất là gì?
Là cách thức mà con người sản xuất của cải vật chất
cúa xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Phương thức sản xuất là thể thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất gồm 2 yếu tố:
+ Người lao động
+ Tư liệu sản xuất: tư liệu lao động (công cụ lao động, phương
tiện lao động) và đối tượng lao động
Nói đến lực
lượng sản xuất là nói trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Công cụ lao động là những công cụ phương tiện tham gia
trực tiếp vào quá tình sản xuất
Phương tiện lao động là đề cập đến nền tảng vật chất kỹ
thuật của xã hội phục vụ cho nền sản xuất (sân bay, bến cảng, kho bãi…)
Đối tượng lao động là vật mà con người tác động đến nó để tạo ra
của cải vật chất. Có hai dạng: dang có sẵn trong tự nhiện, hoặc qua quá trình
lao đông
Công cụ lao động quan
trọng nhất, quyết định năng suất lao động.
Trong lực lượng
sản xuất thì người lao động quyết định.
Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện
ở trình độ kỹ năng của người lao động, trình độ của công cụ lao động, trình độ
tổ chức phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá tình sản xuất. 3 mặt của quan hệ sản xuất:
+ Quan hệ về sở
hữu tư liệu sản xuất
+ Quan hệ về mặt
tổ chức quản lý sản xuất
+ Quan hệ về
phân phối sản phẩm lao động
Quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng nhất,
ai nắm được quyền sở hữu tư liệu sản xuất cũng nắm quyền về tổ chức quản lý sản
xuất, phân phối sản phẩm lao động.
Sở hữu tư liệu sản xuất gồm sở hữu công cộng và sở hữu tư
nhân.
- Ở mỗi hình thái kinh tế xã hội sẽ có một phương thức
sản xuất riêng đặc trưng cho xã hội đó.
- Phương
thức sản xuất có vai trò gì với sự tồn tại và phát triển xã hội?
Phương thức sản xuất có vai trò quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội:
+ Phương
thức sản xuất là cơ sở cho sự tồn tại của xã hội, vì thông qua phương thức sản
xuất sẽ tạo ra của cải vật chất đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người. Con
người có những nhu cầu cơ bản như ăn, ở, mặc, đi lại, giải trí, cần phải sản xuất
của cải để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao, để tồn tại, có con người mới có xã hội.
Nhu cầu của con người ngày càng cao, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, con người
phải thay đổi phương thức sản xuất để đáp ứng nhu cầu.
+ Phương
thức là cơ sở hình thành mọi mặt của xã hội như kinh tế, chính trị, đời sống xã
hội, tinh thần (văn hóa)…Kinh tế được gọi là cơ sở hạ tầng còn chính trị là kiến
trúc thượng tầng. Thời công xã nguyên thủy sản xuất chung, chia đều do trình độ
lực lượng sản xuất thời đó quyết định. Quan hệ sản xuất do công cụ, trình độ
lao động do giai đoàn đó quyết định. Về chính trị, chưa có kẻ giàu, người
nghèo, chưa có giai cấp, chưa có nhà nước, chỉ chủ yếu là tự quản qua hình thức
bộ tộc, nhưng đến cuốc thời kỳ công xã nguyên thủy, công cụ sản xuất tinh vi
hơn, đã có người giàu người nghèo, dẫn đến phân giai cấp. Giai cấp nào nắm tư
liệu sản xuất thành giai cấp thống trị, còn giai cấp không có tư liệu sản xuất
thành giai cấp bị trị. Các Mác nói: “Trong
xã hội cối xay vận hành bằng sức gió có lãnh chúa, còn cối xay vận hành bằng
máy thì có nhà tư bản.” Về ý thức xã hội, thói quen đi trễ do phương thức sản
xuất nhỏ lẻ, nông nghiệp quy định.
+ Phương
thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội. Khi PTSX thay đổi, mọi mặt
của xã hội sẽ thay đổi theo, chuyển sang hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ
hơn.
Mác cho rằng
lịch sử xã hội loài người là lịch sử của sự thay đổi PTSX.
*Ý nghĩa phương pháp luận
- Cung cấp
cơ sở lý luận khoa học duy vật về lịch sử,
bác bỏ quan điểm duy tâm và các quan điểm sai lầm khác về lịch sử. Quan điểm
duy tâm cho rằng có lực lượng siêu nhiên tồn tại bên ngoài con người. Có những
quan điểm về “dân số”, như Mantuýt do rằng của cải tăng cấp số cộng, còn con
người tăng cấp số nhân, nên ủng hộ chiến tranh.
+ Muốn giải
thích mọi mặt của xã hội, phải căn cứ vào nền sản xuất vật chất, phương thức sản
xuất của xã hội đó.
+ Muốn thay đổi
mọi mặt của xã hội phải chú trọng đến việc thay đổi phương thức sản xuất
- Đây là cơ sở lý luận khoa học để Đảng ta hoạch
định các chủ trương đường lối phát triển đất nước..
+ Thực hiện
tốt chính sách bảo vệ môi trường, dân số (Nghị quyết Trung ương 8)
+ Để xây dựng
thành công CNXH trên đất nước ta thì phải từng bước xây dựng phương thức sản xuất mới. (CNH, HĐH)
Câu 4:Trình bày nội dung và ý nghĩa của qui luật về sự phù hợp của QHSX với
trình độ phát triển của LLSX? Liên hệ sự vận dụng qui luật này trên đất nước
ta?
Nội dung quy luật:
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
-Trong một
phương thức sản xuất, Lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình
thức biểu hiện của quá trình sản xuất. Nội dung quyết định hình thức.
- Lực lượng sản
xuất quyết định sự hình thành của quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất ở trình
độ thế nào sẽ quy định một quan hệ sản xuất tương ứng, phù hợp với nó.
- Lực lượng
quyết định sự biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất có
tính động, cách mạng. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một tình độ nhất định
sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất, đỏi hỏi phá vỡ, quan hệ sản xuất cũ,
lạc hậu, hình thành quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trong lực
lượng sản xuất, công cụ lao động luôn phát triển, con người luôn tạo ra công cụ
lao động mới để nâng cao năng suất lao động, dẫn đến lực lượng sản xuất phát
triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, đến mức độ nào đó sẽ đòi hỏi quan hệ sản
xuất mới phù hợp hơn.
- Quan hệ sản xuất sẽ tác động trở lại với lực
lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản
xuất quy dịnh mục đích của sản xuát, hệ thống tổ chức, quản lý sản xuất, cơ cấu
lợi ích, thường xuyên tác động trở lại lực
lượng sản xuất.
·
Quan
hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triên
·
Ngược
lại, sẽ kềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
* Ý nghĩa của quy luật
Cung cấp cơ sở
lý luận khoa học xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử để giải thích nguồn gốc, động lực sự vận động,
phát triển của xã hội, của phát triển sản xuất trong lịch sử.
Cung cấp lý
luận khoa học để Đảng ta hoạch định đường lối phát triển kinh tế.
- Muốn thúc đẩy
nền sản xuất vật chất của xã hội phải ưu tiên phát triển trình độ của lực lượng
sản xuất, đồng thời phải xây các quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Nói đến lực lượng sản xuất,
là nói đến giáo dục đào tạo, phát triển khoa học kỳ thuật, phát triển công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đồng thời quan hệ sản xuất cũng phải phát triển phù hợp với
trình độ lực lượng sản xuất. Hiện nay lực lượng sản xuất có nhiều trình độ nên
cần có nhiều quan hệ sản xuất.
- Phải kịp thời chú ý phát hiện và giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong lịch sử có
thời điểm phát hiện mâu thuẫn này chậm, dẫn đến chậm phát triển.
*Liên
hệ vận dụng quy luật này với đảng ta trong 2 giai đoạn trước và sau đổi
mớ
- Giai đoạn trước đổi mới (1975-1985) Đảng ta đã mắc
phải những sai lầm nhất định.(chứng minh) trong quá trình nhận thức và vận dụng
quy luật này. Những sai lầm:
+ Xây dựng
quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển (quan hệ sản
xuất XHCN). Sở hữu tư liệu sản xuất chỉ có công hữu, không công nhận tư hữu.
Nhà nước tổ chức quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp,
có nghĩa là bằng mệnh lệnh hành chính nhà nước, bất chấp quy luật kinh tế, vì vậy
đã tước đi, không tạo điều kiện cho người lao động chủ động trong sản xuất.
Khâu phân phối sản phẩm theo hình thức bình quân, cào bằng. (Lấy số liệu nghị
quyết 6, nghị quyết 5)
+ Trong quá
trình cải tạo quan hệ sản xuất Đảng ta chỉ tập tung cải tạo mặt sở hựu tư liệu
sản xuất, chưa chú ý đến cách thức quản lý và phân phối phù hợp. Xuất phát từ
chủ nghĩa Mác Lê, tư hữu tư liêu sản xuất là cơ sở mất bình đẳng, ngay cả về
giá trị thặng dư. Nhưng 2 mặt còn lại cũng nằm trong mối quan hệ hữu cơ và biện
chứng.
- Giai đoạn
sau đổi mới (Từ Đại hội VI đến nay), Đảng ta chủ trương tiến hành đồng bộ việc
ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp.
+ Do trình
độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp, phát triển chưa đồng bộ, đòi hỏi
phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận nhiều hình thức sở hữu
(các thành phần kinh tế qua các kỳ đại hội) 4 thành phần: kinh tế nhà nước,
kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế liên kết nước ngoài. Trong 4 thành phần này còn nhiều hình thức nhỏ
hơn. Có 3 hình thức sở hữu chủ yếu: sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu nhà
nước.
+ Nhà nước
tổ chức điều tiết nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
+ Thực hiện
phân phối theo kết quả lao động là chủ yếu.
CÂU 5 :Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu này?
* CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
của một xã hội nhất định.
* KTTT là toàn bộ các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo...,các thể chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo
hội… được hình thành trên một CSHT nhất định.
* Mối quan hệ biện chứng
giữa CSHT và KTTT
- CSHT quyết
định KTTT
(CSHT nào thì KTT nấy):
+ Trật tự kinh tế xét đến cùng quy định trật tự
chính trị, mâu thuẫn trong kinh tế gây ra mâu thuẫn trong chính trị. Giai cấp
nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó thống trị trong chính trị.
+ Tất cả các yếu tố của KTTT dều trực tiếp hay
gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do CSHT quy định.
- CSHT
thay đổi hay mất đi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi hay mất đi để cho
một KTTT mới ra đời, tuy nhiên đây là một quá trình phức tạp.
- KTTT tác
động trở lại đến CSHT:
Do KTTT và mỗi yếu tố của nó có tính độc lập
tương đối và vai trò khác nhau nên chúng tác động đến CSHT theo những cách những
xu hướng khác nhau.
+ Chức năng chính của KTTT là xây dựng, củng cố, bảo vệ CSHT đã
sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hay phá hoại chế độ kinh tế hiện
hành.
+ KTTT tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội, nhưng nó không thể
làm thay đổi xu hướng phát triển khách quan của đời sống kinh tế - xã hội. Sự
tác động của nó chủ yếu diễn ra theo 2 hướng:
. Nếu phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT thúc đẩy
sự tăng trưởng, đảm bảo sự phát triển bền vững cho CSHT.
. Nếu không phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT
kìm hãm sự tăng trưởng, gây bát ổn cho đời sống xã hội
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Cơ sở lý luận khoa học để xây dựng quan điểm duy vật
về lịch sử trong việ xem xét mối quan hệ lịch sử.
- Là cơ sở lý luận
khoa học để Đảng ta xây dựng đường lối kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị được thể hiện xuyên suốt trong các kỳ đại hội.
“Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị, vì
mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” (Đại hội XI)
- Là cơ sở khoa học để chúng ta nhận thức, vận dụng
đúng đường lối đổi mới kinh tế chính trị nước ta.
+ Khẳng định
việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là cấp bách và có ý nghĩa
quyết định.
+ Việc đổi mới
toàn bộ hệ thống KTTT XHCN ở nước ta là rất quan trọng (Nghị quyết TW 8)- Xây dựng
Đảng – Nhà nước pháp quyến.
* Liên hệ vấn đề xây dựng
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam
Cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam: cơ sở hạ tầng ở Việt Nam gồm nền kinh
tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kiến trúc
thượng tầng có chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Dảng Cộng sản, nhà
nước, các đoàn thể chính trị xã hội…
Đảng ta đã vận dụng mối
quan hệ biện chứng này trong quá trình xây dựng CHXH ở nước ta hiện nay.
Nước ta đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau: từ
xã hội cộng sản nguyên thủy tiến lên xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong
kiến rồi tiến hóa lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và đỉnh cao nhất trong
quá trình tiến hóa này là chủ nghĩa cộng sản. Nước ta đang trong giai đoạn xây
dựng CNXH theo hướng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Do đó mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT là 1 quá trình đấu tranh
lâu dài giữa cái mới và cái cũ. CNXH đang trong quá trình xây dựng nên là cái mới
còn rất non yếu, muốn xóa bỏ hết tàng dư của xã hội cũ - đại diện cho cái cũ rất
khó bởi nó đã tồn tại lâu dài. Tuy nhiên con đường đi lên CNXH ở nước ta diễn
ra theo các quy luật khách quan của thời đại chứ không phải do ý muốn chủ quan
của con người quyết định nên nó là cái mới nhưng hợp quy luật nên ngày càng
phát triển và ngược lại cái cũ không hợp quy luật sẽ ngày càng yếu đi.
Đảng ta đã ra sức xây dựng CNXH trong đó phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt:
sở hữu, quản lý và phân phối. Quá trình xây dựng này đòi hỏi chúng ta phải xây
dựng các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn
giáo...,các thể chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo hội cho phù
hợp với sự phát triển của phương thức sản xuất mà Đảng đã đề ra để góp phần xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét